Khi còn nhỏ, tôi hay đọc tiểu thuyết của Kenzaburo Oe hay Inoue Hishashi – những nhà văn theo phong cách truyền thống và đậm chất con người – từ những bản dịch của bố tôi. Ông thích dịch sách của Nhật Bản, thi thoảng ông cung cấp những bản dịch đó cho những người bạn làm bên xuất bản, nhưng thường ông chỉ để đó, như một thú vui.
Ông nói với tôi rằng những cuộc sống của con người giống như một cuốn sách. Câu nói đó mặc dù quá khó hiểu với một đứa bé khi đó mới mười tuổi, vẫn ăn sâu vào tiềm thức tôi và ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển và hình thành nhân cách của bản thân. Cũng vì thế, tôi rất có ấn tượng với những người làm những công việc liên quan đến sách. Hoặc ở đó có một định mệnh gì đó đối với tôi.
- Anh có bao giờ nghĩ là anh sẽ viết mãi không?
- Không, rồi ai cũng sẽ có lúc cạn ý tưởng, anh có phải gà công nghiệp đâu.
- Thế à, buồn nhỉ, em thích đọc những thứ anh viết.
- Thì khi anh không viết, anh cũng có thể biên tập hay làm những việc khác mà. Như một cầu thủ không đá bóng nổi nữa thì sẽ làm huấn luyện viên vậy!
Chúng tôi nói điều này với nhau khi tôi và anh ngồi trong một quán trà nhỏ ở đường Văn Cao. Chúng tôi ngồi ngoài phố, tôi luôn thích ở đó, dù nắng hay mưa, tôi ghét bị đẩy vào bốn bức tường. Quán rất vắng, có lẽ vì thường bật nhạc buồn quá, mà không nhiều người trẻ có thể tìm được niềm vui ở những bản nhạc buồn. Hôm đó là Valentine, chúng tôi đã định đi xem một bộ phim của Quarentino, nhưng không sao kiếm được vé. Có lẽ tất cả mọi người đều đổ xô đi xem phim vào ngày này. Mọi nỗ lực lao vào các trung tâm mua sắm đều vô hiệu.
Mọi những con đường quanh hồ – mà ngày thường chúng tôi hay đi bộ cùng nhau – cũng bỗng đông như muốn chứng minh rằng thành phố này không thiếu dân. Cuối cùng, chúng tôi quyết định làm điều đang làm. Hít hà những bông hồng mỏng manh được bọc trong giấy báo mà Duy tặng tôi từ sáng sớm, tôi trò chuyện với anh về chiếc đèn để bàn tôi mới mua, về chiếc áo tôi mới tự sửa và bản nhạc tôi vừa tập chơi được. Duy ngồi nghe chăm chú, thi thoảng mỉm cười. Anh thường hay miết ngón tay trên cổ tay tôi khi nghe tôi kể lể, hành động này thường làm tôi ngẩn ngơ như con mèo được vuốt cằm.
- Nếu em đi học cao học ở nước ngoài, anh có đi cùng em không?
- Anh không biết. Có thể. Mà tại sao em lại muốn đi học tiếp?
- Em thích.
- Em có nhiều ước mơ nhỉ? – câu hỏi tựa như lời khẳng định, cùng nụ cười dịu dàng.
- Vâng, ước mơ nhiều thì có gì xấu chứ. Ai như anh, em chẳng thấy anh có khao khát gì mãnh liệt cả. Nhiều lúc như kiểu anh bằng lòng với tất cả những thứ anh có bây giờ vậy! – tôi bĩu môi.
- Như thế này chưa đủ sao em?
- Thế nào là đủ?
- Yêu một người yêu mình. Kiếm đủ tiền để có thể làm những việc mình muốn làm. Sống như mình thích.
- Vậy có lẽ em muốn nhiều hơn anh. Anh suy nghĩ đôi khi cứ thiếu thực tế thế nào ý!
Nói xong câu này tự dưng tôi thấy hơi có lỗi. Nhưng Duy không phản ứng gì, anh chỉ cười, như thể đồng tình với những thứ tôi vừa áp đặt.
- Đúng, nhưng biết đâu vì thế anh làm được những thứ mà những người thực tế không làm được!
Ngoài phố, những ánh nắng chiếu xuống đan xen qua khe của hàng cây rợp lá. Chúng đùa giỡn với nhau. Tiếng còi xe inh ỏi trên con đường vắng, đầy xao động…
Anh viết rất nhiều. Ngoài những lúc anh dành cho tôi, Duy hầu như chỉ ngồi quán đọc sách, hoặc ở trong căn phòng nhỏ – có lẽ yên tĩnh nhất thành phố – nghe nhạc của Boney M và viết. Anh dành nhiều thời gian cho chữ nghĩa tới mức tôi phải tự đặt câu hỏi không hiểu có gì đang đuổi theo anh nữa! Khi nghe tôi phàn nàn về việc đó, anh thường rời ngay bàn làm việc, đưa tôi đi ăn ở những quán vỉa hè, hoặc cùng xem một bộ phim tình cảm bi kịch nào đó và lau nước mắt cho tôi đang sướt mướt. Mặc dù biết Duy yêu tôi, tôi thường hay càu nhàu về cuộc sống có vẻ quá đơn giản và cực đoan của anh, hay cả về lối tư duy cuộc sống của anh.
(Còn nữa...)